Các nhà khoa học thử nghiệm lâm sàng giai đoạn ba loại thuốc điều trị ung thư cổ tử cung, có thể tăng tỷ lệ sống sót tới 30%.
Thuốc có tên TIVDAK (tisotumab vedotin), sử dụng bằng cách tiêm tĩnh mạch. Tỷ lệ bệnh nhân đáp ứng với thuốc là 17,8%, cao hơn nhiều so với hóa trị là 5,2%.
Thử nghiệm lâm sàng giai đoạn ba cũng đo lường tỷ lệ kiểm soát bệnh. Đây là mức tương thích của bệnh nhân với thuốc, giúp bệnh ổn định. Kết quả cho thấy tỷ lệ kiểm soát bệnh là 75,9%, trong khi ở hóa trị là 58,2%.
Tiến sĩ Brian Slomovitz, giám đốc khoa ung thư phụ khoa tại Trung tâm Y tế Mount Sinai ở Miami Beach, đã nhấn mạnh tầm quan trọng của nghiên cứu này. Ông nhận định việc đảm bảo được lợi thế sống sót tổng thể trong ung thư cổ tử cung là cực kỳ hiếm.
Thuốc đã thay đổi tiêu chuẩn chăm sóc bậc hai đối với bệnh. Giờ đây, tất cả bệnh nhân tái phát sau liệu pháp điều trị bậc một có thể được chỉ định sử dụng TIVDAK.
“Vì thế, thuốc là yếu tố thay đổi cục diện điều trị”, ông nói.
Tiến sĩ Slomovitz giải thích thuốc mới tấn công một loại protein nhất định trên tế bào, đưa hóa trị liệu đến tế bào một cách chính xác hơn. Vì vậy, nó không gây ra nhiều tác dụng phụ như hóa trị truyền thống.
Marc Siegel, giáo sư y khoa lâm sàng tại Trung tâm Y tế NYU Langone, tin rằng TIVDAK hứa hẹn là phương pháp điều trị hiệu quả. Ông cho biết ung thư cổ tử cung là căn bệnh rất nguy hiểm, khó chẩn đoán sớm, tiên lượng xấu khi di căn.
Nhân viên y tế tư vấn về ung thư cổ tử cung cho một phụ nữ. (Ảnh: Freepik)
Bệnh thường được điều trị bằng nhiều loại thuốc, gồm hóa trị và xạ trị, có thể thu nhỏ nhưng không chữa khỏi khối u. TIVDAK, sử dụng kháng thể đơn dòng chống lại yếu tố mô liên quan đến khối u, có thể là liệu pháp bổ sung, hữu ích với hiệu quả và tỷ lệ đáp ứng cao.
Tác dụng phụ của thuốc là viêm kết mạc, bệnh thần kinh ngoại biên (yếu, tê và đau do tổn thương dây thần kinh). Một số bệnh nhân bị chảy máu. Tuy nhiên, tiến sĩ Kathleen Moore, phó giám đốc nghiên cứu lâm sàng tại Trung tâm Ung thư Stephenson, cho biết các phản ứng này vẫn trong tầm kiểm soát.
Moore đã sử dụng TIVDAK cho bệnh nhân của mình kể từ khi Cục Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm (FDA) phê duyệt thử nghiệm nhân đạo vào năm 2021. Bà báo cáo họ không gặp vấn đề trong việc quản lý và giảm thiểu tác dụng phụ. Bệnh nhân thường dùng thuốc nhỏ mắt kê đơn trước khi điều trị và chườm lạnh để giảm thiểu độc tính tiềm ẩn của thuốc.
Tiến sĩ Slomovitz cũng báo cáo chỉ có 5% bệnh nhân phải ngừng điều trị do tác dụng phụ. Theo ông, hóa trị liệu có tác dụng phụ nghiêm trọng hơn, như thiếu máu, buồn nôn, rụng tóc và giảm bạch cầu.
“Chúng tôi hy vọng phương pháp điều trị như TIVDAK sẽ hỗ trợ bệnh nhân nhiều hơn. Là bác sĩ lâm sàng, tôi cảm thấy tác dụng phụ có thể kiểm soát được. Với hiệu quả tổng thể đó, bệnh nhân cũng sẵn sàng chấp nhận”, ông nói.